*

*

Title:ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ RÒ NIỆU ĐẠO SAU MỔ LỖ TIỂU THẤP TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Authors:TRẦN NGỌC, SƠN
Advisor:PHẠM DUY, HIỀN
Keywords:Ngoại khoa
Issue Date:2021
Publisher:TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract:Lỗ tiểu thấp là dị tật bẩm sinh khá phổ biến ở trẻ trai với biểu hiện dương vật cong và lỗ tiểu ở vị trí thấp. Dị tật này có tỷ mắc dao động từ 1/1200 tới 1/200 ở trẻ trai. Các loại biến chứng sau mổ lỗ tiểu thấp khá cao, bao gồm rò niệu đạo, hẹp niệu đạo, cong dương vật. Rò niệu đạo là biến chứng hay gặp nhất rồi tới hẹp niệu đạo và cong dương vật2. Rò niệu đạo có thể gặp ở mọi vị trí trên ống niệu đạo tạo hình với kích thước lỗ rò khác nhau, có thể rò đơn thuần3,4, 5 hay rò kết hợp với hẹp niệu đạo và cong dương vật6, 7. Rò niệu đạo có các mức độ nặng nhẹ khác nhau và các kỹ thuật mổ cũng khác nhau: khâu rò, vá rò và tạo niệu đạo. Kỹ thuật mổ chữa rò không đơn giản thậm chí còn khó hơn cả lần đầu mổ chữa lỗ tiểu thấp do thiếu chất liệu để tạo hình niệu đạo và che phủ 6, 7, 8. Cũng giống như mổ chữa lỗ tiểu thấp, không có một kỹ thuật duy nhất để mổ chữa rò niệu đạo sau mổ lỗ tiểu thấp. Sự chọn kỹ thuật mổ tùy thuộc vào vị trí lỗ rò, số lượng và kích thước lỗ rò, tình trạng da quanh lỗ rò. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về điều trị rò niệu đạo với tỷ lệ bị rò lại từ 2,7 % tới 25,4% và nếu rò niệu đạo mổ chữa thất bại thì tỷ lệ thành công của lần mổ chữa tiếp theo cũng thấp9, 10, 11. Tuy kỹ thuật mổ chữa rò niệu đạo thường đơn giản hơn mổ chữa lỗ tiểu thấp nhưng kết quả vẫn luôn chưa được như mong muốn. Ngay với lỗ rò nhỏ được mổ chữa lần đầu, kỹ thuật khâu lỗ rò dễ làm và nhanh nhưng lại đối diện với nguy cơ tiềm tàng của các đường khâu chồng nhau và tỷ lệ rò tái phát cao12. Tỷ lệ thành công khi mổ chữa rò niệu đạo tái phát thường thấp hơn rò niệu đạo mổ lần đầu. Sau lần mổ chữa rò niệu đạo lần thứ 2 và thứ 3 thì chỉ thành công từ 50-80%11, 13. Do vậy rò niệu đạo vẫn được coi là một thách thức với các phẫu thuật viên khi mổ chữa tật lỗ tiểu thấp9. Ở Việt Nam, nghiên cứu điều trị lỗ tiểu thấp đã có 5 luận án tiến sỹ 3, 14, 15, 16, 17 và một số luận văn chuyên khoa cấp 2 18, luận văn thạc sỹ19 và đã có khá nhiều bài báo đăng trong các tạp chí y học trong nước 20, 21, 22, 23. Nghiên cứu về mổ chữa biến chứng sau mổ lỗ tiểu thấp thì có một số nghiên cứu đã đăng trong các tạp chí y học như mổ chữa rò niệu đạo4, 5, chữa hẹp niệu đạo24, 25, 26, chữa cong dương vật27 hay chữa các biến chứng rò niệu đạo kết hợp với hẹp niệu đạo và cong dương vật8, 28. Vấn đề còn tồn tại khi nghiên cứu về điều trị rò niệu đạo là cần lựa chọn kỹ thuật mổ chữa cho từng loại rò niệu đạo và đánh giá tỷ lệ thành công của các kỹ thuật đó. Từ đó sẽ rút được kinh nghiệm về chọn và hoàn thiện kỹ thuật mổ để có được tỷ lệ thành công cao trong mổ chữa rò niệu đạo. Do vậy chúng tôi thực hiện đề tài “Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị rò niệu đạo sau mổ lỗ tiểu thấp tại bệnh viện nhi trung ương”. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ điều trị rò niệu đạo đơn thuần, không kèm theo các biến chứng kết hợp như hẹp niệu đạo và cong dương vật. Mục tiêu nghiên cứu 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng rò niệu đạo sau mổ lỗ tiểu thấp được điều trị phẫu thuật tại bệnh viện nhi trung ương giai đoạn 2019 – 2021. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị rò niệu đạo của nhóm bệnh nhân trên.

Bạn đang xem: Phẫu thuật lỗ tiểu thấp bệnh viện nhi trung ương

URI:http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2375
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Bị chẩn đoán biến dạng lỗ niệu đạo bẩm sinh, con cháu Hoàng Đức Thanh, 4 tuổi, trú tại buôn bản Thu Cúc, thị xã Tân Sơn gặp rất nhiều trở ngại trong câu hỏi tiểu tiện cũng giống như trong các sinh hoạt sản phẩm ngày. New đây, các bác sĩ của Trung vai trung phong Sản Nhi đang phẫu thuật thành công xuất sắc ca mổ tạo thành hình lỗ đái dương vật, không chỉ là giúp dịch nhi đi tiểu được bình thường mà còn bảo toàn được nguyên vẹn công dụng sinh sản.


Năm 2015, gia đình chị Hoàng Thị chuẩn vui mừng khi đón con trai khỏe khỏe khoắn chào đời. Mặc dù niềm vui ấy lại chẳng được toàn diện khi chị phát hiện bé mình bao gồm những bất thường ở dương vật. Mái ấm gia đình đã đưa con cháu xuống bệnh viện đa khoa thức giấc Phú thọ kiểm tra. Trên đây, sau khoản thời gian thăm khám, cháu Thanh được chẩn đoán bị dị tật bẩm sinh lỗ niệu đạo, theo đó lỗ niệu đạo của con cháu nằm thấp, gây trở ngại trong quá trình tiểu tiện, tác động chức năng sản xuất sau này. Tuy vậy do tuổi của còn quá nhỏ dại nên các bác sĩ tư vấn mái ấm gia đình nên đưa con cháu về, lúc cháu to hơn, đủ điều kiện về sức khỏe thì đưa cháu quay lại để tiến hành phẫu thuật chế tạo ra hình.

Tháng 7/2019, gia đình đưa Thanh xuống Trung trọng tâm Sản Nhi thăm khám. Nhấn thấy đó là thời điểm tương thích để phẫu thuật, những bác sĩ đã bốn vấn gia đình cho cháu nhập viện để sẵn sàng phẫu thuật.

Xem thêm: Bệnh trĩ để lâu có sao không ? bệnh trĩ để lâu có sao không

Với nhiều quy trình phức tạp, phẫu thuật tạo thành hình lỗ tiểu yên cầu trình độ trình độ chuyên môn cao của đội ngũ y bác bỏ sĩ triển khai đồng thời quan trọng có các trang thiết bị hiện đại, thậm chí các thiết bị y tế giành riêng cho các phẫu thuật sản xuất hình dương vật ở trẻ.

*

Ca phẫu thuật cho bệnh nhi Hoàng Đức Thanh

Ca phẫu thuật được thực hiện bởi nhóm ngũ những bác sĩ xuất sắc khoa ngoại nhi tổng phù hợp – Trung chổ chính giữa Sản Nhi dưới sự hướng dẫn của chuyên viên Th
S.BS Nguyễn Duy Việt – Phó trưởng khoa ngày tiết niệu – bệnh viện Nhi Trung ương. Sau hơn 1 tiếng, ca phẫu thuật vẫn thành công, căn bệnh nhi được đưa về khoa ngoại nhi tổng hợp thường xuyên theo dõi với điều trị.

Chị chuẩn chỉnh – chị em cháu Thanh phân chia sẻ: “Đến giờ đồng hồ này tuy nhỏ còn đau do vừa mổ xoang xong, nhưng mái ấm gia đình tôi khôn cùng vui mừng. Mừng tuyệt nhất là từ nay con có thể có cuộc sống bình thường như bao bạn trai khác mà chưa hẳn e ngại các lần đi vệ sinh nữa. Qua đây tôi xin được nhờ cất hộ lời cảm ơn chân thành tới tập thể những bác sĩ Trung tâm Sản Nhi và chuyên gia đã không phải lo ngại vất vả để triển khai ca phẫu thuật này cho cháu”.

Lỗ tiểu lệch rẻ là dị dạng khá thịnh hành ở nam giới với phần trăm mắc có xu hướng ngày càng tăng thêm (vào trong thời điểm 80, xác suất mắc là 1/800 thì tới nay con số này sẽ là 1/300). Mặc dù không nguy hiểm đến tính mạng, dẫu vậy tình trạng này có tác động rất to lớn tới tư tưởng của người bệnh và gia đình. Đặc biệt tác dụng sinh dục, sinh sản của bệnh nhân gặp rất những trở ngại. Còn nếu không kịp thời xử lý rất có thể gây vô sinh.